KHẢO SÁT CHƯƠNG TRÌNH NGOẠI KIỂM HÓA SINH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ TẠI PHÒNG XÉT NGHIỆM Ở VIỆT NAM

Nguyễn Tiến Huỳnh1, , Van Hy Triet1, Liem Nguyen Thanh 1, Thuy Van Thi Thanh2, Tung Le Thanh2, Đậu Thị Xuyến2, Bùi Thị Lệ Xuân2, Trần Văn Tỉnh2, Nguyễn Thị Thùy2, Nguyễn Hà Cẩm Tú2, Nguyễn Thị Ngọc Diễm2, Trần Lê Anh Khoa2, Nguyễn Đức Phú3, Huỳnh Thị Diễm Phúc2
1 Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
2 Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
3 Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí M

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Giới thiệu: Khảo sát này nhằm đánh giá kết quả chương trình ngoại kiểm hóa sinh và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả không đạt của các phòng xét nghiệm tham gia. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Toàn bộ các phòng xét nghiệm tham gia chương trình ngoại kiểm hóa sinh từ tháng 10/2024 đến tháng 02/2025 được đưa vào phân tích. Nghiên cứu được thiết kế mô tả cắt ngang, sử dụng dữ liệu từ năm đợt ngoại kiểm liên tiếp. Phân tích thống kê được thực hiện bằng phép kiểm Chi-square và ANOVA nhằm xác định sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm.


Kết quả tổng cộng có 240 phòng xét nghiệm trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam tham gia với 15 thông số xét nghiệm hóa sinh được đánh giá. Thảo luận và Kết luận: Tỷ lệ kết quả không đạt có sự biến động giữa các phương pháp và các đợt ngoại kiểm. Ba nguyên nhân chính dẫn đến kết quả không đạt gồm: sự cố thiết bị hoặc thiếu hiệu chuẩn, bảo dưỡng định kỳ (21,18%); sử dụng hóa chất từ bên thứ ba (17,56%); và thiếu xác nhận giá trị sử dụng (16,47%). Trước khi xét nghiệm, trên 90% mẫu đạt yêu cầu về nhiệt độ và tình trạng đóng gói. Tuy nhiên, có tới 76,47% phòng xét nghiệm sử dụng hệ thống mở và 64,70% không rõ tình trạng xác nhận giá trị sử dụng. Phần lớn các đơn vị có thực hiện rà soát khi phát hiện sai lệch (81,18%), dựa vào chỉ số SDI để đánh giá (90,59%) và tham gia đào tạo liên tục (71,76%).


Kết quả cho thấy chương trình ngoại kiểm đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa quy trình, nâng cao năng lực và độ tin cậy của các phòng xét nghiệm.


 


Từ khóa: Ngoại kiểm, hóa sinh, khảo sát, nguyên nhân ngoại kiểm không đạt

Chi tiết bài viết

Thông tin về tác giả

Van Hy Triet, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh

TS. Văn Hy Triết, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm y học, Đại học Y Được Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo

Bais, R., Vassault, A., Blasutig, I. M., Dabla, P. K., Lin, J., Perret-Liaudet, A., Thomas, A., Cendejas, K. A., Wheeler, S. E., Giannoli, J. M., Meng, Q. H., & Amann, E. P. (2024). External quality assessment performance in ten countries: an IFCC global laboratory quality project. Clin Chem Lab Med, 62(12), 2435-2443. https://doi.org/10.1515/cclm-2024-0859
Clinical and Laboratory Standard Institute (CLSI). (2010). Clinical chemistry: principles, techniques, and correlations 6th edition. In P. 333 (Ed.).
Daniel W. Tholen, M. S., Chairholder & cs,. (2011). Evaluation of the linearity of quantitative measurement procedures: A statistical Approach; Approved Guideline”. EP 6-A, Vol.23 No.16.
International Organization for Standardization (ISO). (2022). ISO 13528:2022 Statistical methods for use in proficiency testing by interlaboratory comparison. ISO, 2022.
Mercan, F., Serdar, M., Senes, M., Konukoglu, D., Inal, T., Alatas, O., Pinar, A., Savci, Ö., Güven, M., Gündüz, M., Eğin, E., Tipioğlu, Y., Tekin, A., & Yucel, D. (2019). National External Quality Assessment follow-up: 2010–2017 Turkish experience. Turkish Journal of Biochemistry, 44. https://doi.org/10.1515/tjb-2018-0464
Sciacovelli, L., Zardo, L., Secchiero, S., Zaninotto, M., & Plebani, M. (2003). Interpretative comments and reference ranges in EQA programs as a tool for improving laboratory appropriateness and effectiveness. Clinica Chimica Acta, 333(2), 209-219. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/S0009-8981(03)00188-8
Simundic, A. M., & Lippi, G. (2012). Preanalytical phase--a continuous challenge for laboratory professionals. Biochem Med (Zagreb), 22(2), 145-149. https://doi.org/10.11613/bm.2012.017